Cấu trúc tinh thể là gì? Các công bố khoa học về Cấu trúc tinh thể
Cấu trúc tinh thể là mô tả vị trí và mối liên kết giữa các nguyên tử, phân tử hoặc ion trong một tinh thể. Mô tả này xác định sự sắp xếp không gian của các điểm...
Cấu trúc tinh thể là mô tả vị trí và mối liên kết giữa các nguyên tử, phân tử hoặc ion trong một tinh thể. Mô tả này xác định sự sắp xếp không gian của các điểm mạng trong tinh thể, tạo ra một mô hình để hiểu và dự đoán các tính chất vật lý và hóa học của tinh thể đó. Cấu trúc tinh thể có thể được mô tả bằng một số phương pháp như phân tử học, đàn kế hoạch và phân tử tổng hợp tinh thể.
Cấu trúc tinh thể xác định tình trạng sắp xếp không gian của các hạt nhỏ (nguyên tử, phân tử, ion) trong một mẫu tinh thể. Mỗi hạt nhỏ được gọi là tạp chất và được gọi là nút hoặc điểm mạng. Cấu trúc tinh thể quyết định sự phối trí, khoảng cách giữa các tạp chất, và tổ chức không gian của chúng.
Tử tập hợp các điểm mạng tạo thành một mốc lưới không gian, trong đó mỗi nút được liên kết với các nút láng giềng xung quanh bằng các quy tắc cụ thể. Có nhiều cách khác nhau để mô tả cấu trúc tinh thể, nhưng một số mô hình phổ biến nhất bao gồm:
1. Mô hình Hình học: Mô hình này miêu tả tọa độ không gian của các nút trong hệ tọa độ 3 chiều, trong đó mỗi điểm được xác định bằng các giá trị x, y và z.
2. Mô hình Sống thu: Mô hình này sử dụng các véc-tơ chỉ dẫn từ một nút tới các nút láng giềng xung quanh để mô tả mối liên kết và phối trí của các tạp chất trong tinh thể.
3. Mô hình Cấu trúc học: Mô hình này xem xét mối tương quan giữa các nút láng giềng, khoảng cách giữa chúng và góc liên kết để mô tả cấu trúc tinh thể.
Cấu trúc tinh thể có thể được xác định thông qua các phương pháp thực nghiệm như tia X, quang phổ tia X, quang phổ từ điển và quang phổ cộng hưởng từ. Các phương pháp tính toán như lý thuyết mật độ chức năng (DFT) và phương pháp lý thuyết tinh thể (CT) cũng có thể được sử dụng để phân tích và dự đoán cấu trúc tinh thể.
Cấu trúc tinh thể được mô tả bằng cách xác định các điểm mạng và mối liên kết giữa chúng. Một số khái niệm quan trọng liên quan đến cấu trúc tinh thể gồm:
- Nguyên tắc Pauli: Nguyên tắc này quy định rằng mỗi quá trình điện tử chỉ có thể tồn tại trong một trạng thái mà chỉ có một electron có thể bắt gặp.
- Ràng buộc nguyên tử: Ràng buộc này quy định mối quan hệ giữa các vị trí nguyên tử và cấu trúc không gian của tinh thể. Ví dụ, các nguyên tử trong mạng tinh thể kim loại thường có cấu trúc không gian gọn và chủ yếu có các mạng lưới đơn giản như lục phân, lập phương hoặc tam giác đơn giản.
- Định luật von Laue: Định luật này chỉ ra rằng các tia X phản xạ từ tinh thể sẽ tạo ra các hoa văn tuần hoàn, cho phép chúng ta xác định cấu trúc tinh thể bằng cách phân tích mô hình hoa văn này.
- Đơn vị tinh thể: Đây là đơn vị lặp lại nhỏ nhất của cấu trúc tinh thể, được nhân bản và mở rộng trong không gian để tạo thành cấu trúc tinh thể.
Cấu trúc tinh thể có thể được phân loại thành các loại khác nhau như tinh thể kim loại, tinh thể ion, tinh thể phân tử và tinh thể điện cực. Mỗi loại tinh thể có các đặc điểm cấu trúc độc đáo và tương tác không gian khác nhau giữa các tạp chất.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "cấu trúc tinh thể":
Kết quả của việc xác định cấu trúc tinh thể đơn khi ở định dạng CIF hiện đã có thể được xác thực một cách tự động. Theo cách này, nhiều lỗi trong các tài liệu được công bố có thể được tránh. Phần mềm xác thực sinh ra một bộ ALERTS nêu chi tiết các vấn đề cần được thực hiện bởi nhà thực nghiệm, tác giả, người phản biện và tạp chí xuất bản. Việc xác thực đã được tiên phong bởi tạp chí IUCr
Nghiên cứu này tập trung vào tình trạng kiệt sức và mặt trái tích cực của nó - mức độ tham gia. Một mô hình được kiểm tra, trong đó tình trạng kiệt sức và mức độ tham gia có những yếu tố dự đoán khác nhau và những hậu quả có thể khác nhau. Mô hình phương trình cấu trúc được sử dụng để phân tích dữ liệu đồng thời từ bốn mẫu nghề nghiệp độc lập (tổng cộng
Phỏng vấn Thần kinh Tâm thần Quốc tế Mini (MINI) là một phỏng vấn chẩn đoán có cấu trúc ngắn gọn (DSI) được phát triển tại Pháp và Hoa Kỳ nhằm khám phá 17 rối loạn theo tiêu chí chẩn đoán của Sổ tay Chẩn đoán và Thống kê Các rối loạn Tâm thần (DSM)-III-R. Nó được cấu trúc hoàn toàn để cho phép các người phỏng vấn không chuyên thực hiện. Để giữ cho phỏng vấn ngắn gọn, MINI tập trung vào sự tồn tại của các rối loạn hiện tại. Đối với mỗi rối loạn, một hoặc hai câu hỏi sàng lọc loại bỏ chẩn đoán khi được trả lời một cách tiêu cực. Các câu hỏi về mức độ nghiêm trọng, tàn tật hoặc triệu chứng giải thích bằng y tế không được khám phá triệu chứng từng cái một. Hai tài liệu chung trình bày độ tin cậy giữa các người phỏng vấn và độ chính xác lại của MINI so với Phỏng vấn Chẩn đoán Quốc tế Tổng hợp (CIDI) (bài báo này) và Phỏng vấn Lâm sàng Có cấu trúc cho bệnh nhân DSM-III-R (SCID) (tài liệu chung). Ba trăm bốn mươi sáu bệnh nhân (296 tâm thần và 50 không tâm thần) đã được phỏng vấn bằng MINI và CIDI ‘tiêu chuẩn vàng’. Bốn mươi hai người được phỏng vấn bởi hai nhà điều tra và 42 người được phỏng vấn ngay sau đó trong vòng hai ngày. Các người phỏng vấn đã được đào tạo để sử dụng cả hai công cụ này. Thời gian trung bình của cuộc phỏng vấn là 21 phút với MINI và 92 phút cho các phần tương ứng của CIDI. Hệ số kappa, độ nhạy và độ đặc hiệu đều tốt hoặc rất tốt cho tất cả chẩn đoán ngoại trừ rối loạn lo âu tổng quát (GAD) (kappa = 0.36), lo âu không gian (độ nhạy = 0.59) và chứng ăn uống bulimia (kappa = 0.53). Độ tin cậy giữa các người chấm và độ chính xác lại đều tốt. Những lý do chính cho sự không đồng nhất đã được xác định. MINI đã cung cấp các chẩn đoán DSM-III-R đáng tin cậy trong một khoảng thời gian ngắn, và nghiên cứu cho phép cải tiến trong việc định hình cho GAD và lo âu không gian trong phiên bản DSM-IV hiện tại của MINI.
Các ứng dụng mới như xe điện hỗn hợp và dự phòng nguồn điện yêu cầu pin có thể sạc lại kết hợp mật độ năng lượng cao với khả năng sạc và xả nhanh. Sử dụng mô hình tính toán từ đầu, chúng tôi xác định các chiến lược hữu ích để thiết kế các điện cực pin có tốc độ cao hơn và đã kiểm định chúng trên lithium niken mangan oxide [Li(Ni 0.5 Mn 0.5 )O 2 ], một vật liệu an toàn, giá rẻ nhưng được cho là có khả năng tốc độ kém. Bằng cách thay đổi cấu trúc tinh thể của nó, chúng tôi đã đạt được khả năng tốc độ cao đáng kinh ngạc, đáng kể hơn rất nhiều so với lithium coban oxide (LiCoO 2 ), vật liệu điện cực pin được lựa chọn hiện nay.
Các khoáng vật oxit mangan đã được sử dụng trong hàng nghìn năm—bởi người xưa để chế tạo thuốc nhuộm và làm trong suốt kính, và ngày nay là quặng mangan, xúc tác, và vật liệu cho pin. Hơn 30 khoáng vật oxit mangan xuất hiện trong nhiều bối cảnh địa chất khác nhau. Chúng là thành phần chính của các hạt mangan trải rộng trên diện tích lớn của đáy đại dương và đáy nhiều hồ nước ngọt. Các khoáng vật oxit mangan có mặt khắp nơi trong đất và trầm tích và tham gia vào nhiều phản ứng hóa học ảnh hưởng đến nước ngầm và thành phần đất. Sự xuất hiện điển hình của chúng dưới dạng hỗn hợp hạt mịn khiến việc nghiên cứu cấu trúc nguyên tử và hóa học tinh thể của chúng trở nên khó khăn. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các nghiên cứu sử dụng kính hiển vi điện tử truyền qua và các phương pháp nhiễu xạ tia X bột và neutron đã cung cấp những hiểu biết mới quan trọng về cấu trúc và tính chất của những vật liệu này. Cấu trúc tinh thể của todorokite và birnessite, hai trong số các khoáng vật oxit mangan phổ biến hơn trong các mỏ trên đất liền và hạt đại dương, đã được xác định bằng dữ liệu nhiễu xạ tia X bột và phương pháp tinh chỉnh Rietveld. Do các đường hầm lớn trong todorokite và các cấu trúc liên quan, có nhiều sự quan tâm trong việc sử dụng những vật liệu này và các đồng thúc đẩy tổng hợp như là xúc tác và tác nhân trao đổi cation. Các khoáng vật thuộc nhóm birnessite có cấu trúc lớp và dễ dàng trải qua các phản ứng oxy hóa khử và phản ứng trao đổi cation, đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát hóa học nước ngầm.
Cấu trúc tinh thể của phức hợp hình thành bởi estradiol và miền gắn kết ligand của thụ thể estrogen-α người (hERαLBD) với độ phân giải 2,8-Å được mô tả và so sánh với cấu trúc mới công bố gần đây của phức hợp progesterone với miền gắn kết ligand của thụ thể progesterone người, cũng như với các cấu trúc tương tự của miền gắn kết ligand thụ thể nhân/steroid được giải quyết ở những nơi khác. Miền hERαLBD khi liên kết hormone hình thành ra một giao diện dimer khác biệt và có thể quan trọng hơn về mặt sinh lý so với phần tương ứng của progesterone. So sánh các yếu tố quyết định độ đặc hiệu của việc gắn kết hormone cho thấy một chủ đề cấu trúc chung của các tương tác hỗ trợ lẫn nhau của van der Waals và liên kết hydro liên quan đến các dư lượng bảo tồn cao. Cơ chế đề xuất trước đây mà thụ thể estrogen phân biệt nhóm 3-hydroxy độc đáo của estradiol từ chức năng 3-keto của hầu hết các steroid khác nay được mô tả chi tiết theo từng nguyên tử. Kết quả bản đồ từ các nghiên cứu đột biến cho thấy bề mặt gắn kết của đồng hoạt hóa bao gồm vùng xung quanh “trình tự chữ ký” cũng như helix 12, nơi mà cấu hình phụ thuộc ligand của lõi chức năng kích hoạt 2 là tương tự ở tất cả các miền gắn kết ligand thụ thể nhân/steroid đã được giải khác trước đây. Sự kiện đóng gói tinh thể đặc biệt đã làm dịch chuyển helix 12 trong miền hERαLBD được báo cáo ở đây, gợi ý mức độ biến động động cao hơn mong đợi cho cấu trúc phụ quan trọng này.
Phản ứng oxi hóa điện hóa của các hợp chất dị vòng thơm thiophen, pyrrole và indole cũng như các hydrocarbon đa vòng benzen và không benzen như azulene, fluorene và pyrene tạo ra các polyme dẫn điện với độ dẫn điện từ 10−5 đến 10 S/cm. Sự hiện diện của các substituents ảnh hưởng đến độ dẫn điện của các màng này cũng như các tính chất điện hoạt của chúng. Hơn nữa, các substituents xác định liệu việc điện trùng hợp của các hợp chất này có thể xảy ra hay không, hoặc liệu các sản phẩm hòa tan được hình thành. Tính quan trọng tương đối của các con đường này phụ thuộc vào độ bền của cation gốc trung gian. Những tác động này được nghiên cứu thông qua các tính toán orbital phân tử INDO.
Các bột ZrO2 cỡ nano với cấu trúc gần như tinh khiết gồm ba dạng đơn, tứ diện và lập phương được tổng hợp bằng nhiều phương pháp khác nhau đã được sử dụng làm xúc tác cho sự phân hủy quang xúc tác của methyl orange. Tính chất cấu trúc và bề mặt của các mẫu đã được phân tích bằng phương pháp nhiễu xạ tia X, phổ Raman, TEM, UV-vis, phổ điện tử tia X (XPS), và đo lường hấp thụ N2. Hiệu suất của các hạt ZrO2 tổng hợp trong sự phân hủy quang xúc tác methyl orange dưới ánh sáng UV đã được đánh giá. Hoạt tính quang xúc tác của mẫu ZrO2 dạng đơn tinh khiết cao hơn so với mẫu ZrO2 dạng tứ diện và lập phương dưới các điều kiện tối ưu giống nhau. Kết quả đặc trưng chỉ ra rằng các hạt ZrO2 dạng đơn có độ tinh thể cao và có các mao quản với đường kính 100 Å. Hoạt tính cao hơn của mẫu ZrO2 dạng đơn trong việc phân hủy quang xúc tác methyl orange có thể được quy cho sự kết hợp của các yếu tố bao gồm sự hiện diện của một lượng nhỏ pha zirconi oxit thiếu oxy, độ tinh thể cao, các lỗ lớn và mật độ cao của các nhóm hydroxyl trên bề mặt.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10